Thực đơn
Nhà Tống Quân sựNhững năm đầu, Bắc Tống kế tục chế độ thời Hậu Chu, đặt "Điện tiền ty" và "Thị vệ thân quân ty", gọi chung là lưỡng ty,[tham 48] với các quân chức cao cấp như "Điện tiền ty đô điểm kiểm", "Điện tiền ty phó đô điểm kiểm", "Thị vệ thân quân ty mã bộ quân đô chỉ huy sứ", "Thị vệ thân quân ty phó đô chỉ huy sứ". Nhằm tăng cường hoàng quyền và ổn định tầng lớp quân sự, Tống Thái Tổ quyết định tăng cường trung ương tập quyền, đề phòng võ tướng tước đoạt quyền lợi.[tham 49] Tháng ba năm Kiến Long thứ 2 (961), Tống Thái Tổ tước bỏ quân chức "điện tiền ty đô điểm kiểm" trọng yếu trong cấm quân. Tháng bảy cùng năm, Tống Thái Tổ thông qua "bôi tửu thích binh quyền" để giải trừ quân quyền của võ tướng, đồng thời phế trừ chức "điện tiền ty phó đô điểm kiểm",[tham 50] Thị vệ thân quân ty mã bộ quân đô chỉ huy sứ và phó đô chỉ huy sứ trong một thời gian dài không đặt,[tham 51]. Năm Cảnh Đức thứ 2 (1005) thời Tống Chân Tông, phế bỏ "thị vệ thân quân ty đô ngu hầu",[tham 52] "thị vệ thân quân ty" phân thành "thị vệ thân quân mã quân ty" và "thị vệ thân quân bộ quân ty", hai đơn vị này và "điện tiền ty" được gọi chung là "tam nha", đến đây hoàn thành diễn biến từ lưỡng ty đến tam nha môn, tam nha phân biệt do "điện tiền ty đô chỉ huy sứ", "thị vệ thân quân ty mã quân đô chỉ huy sứ" và "thị vệ thân quân ty bộ quân đô chỉ huy sứ" thống lĩnh. Tuy vậy, tam soái không có quyền phát binh. Thời Tống, tại trung ương thiết lập xu mật viện để phục trách quân vụ, xu mật viện do hoàng đế phụ trách trực tiếp, bất kỳ quan viên nào cũng không được can thiệp. Xu mật viện tuy có thể phát binh, song không thể trực tiếp thống quân, điều này dẫn đến phân ly quyền thống binh và quyền điều binh. Triều Tống thực hành "Canh Tuất pháp", thường tiến hành thay thế tướng lĩnh thống binh, nhằm khiến tướng không thể chuyên thống lĩnh một đơn vị, nhằm đề phòng trong quân đội xuất hiện thế lực cá nhân. Thời chiến tranh, tư lệnh chiến khu đều do văn quan hoặc thái giám đảm nhiệm, và cải biến chiến lược nhất thiết phải được hoàng đế đồng ý, điều này có ảnh hưởng tiêu cực đến chiến lực của triều Tống.
Triều Tống thực hành "sùng văn ức võ, dĩ văn chế võ", xu mật viện sứ và xu mật viện phó sứ phần nhiều là do văn quan đảm nhiệm, thiểu số võ thần từng nhậm chức tại xu mật viện, song đều chịu sự phản đối từ văn thần với lý do quy tắc của tổ tông,[tham 53] đều bị bãi truất. Sau thời Tống Chân Tông, triều đình sử dụng văn quan làm quan thống binh, đốc soái võ tướng, dần thành quán lệ; an phủ sứ, kinh lược an phủ sứ do văn quan đảm nhiệm, võ tướng đảm nhiệm đô bộ thư (đô tổng quản), phó đô bộ thự, bộ tự (tổng quản), phó bộ thự, kiềm hạt, tuần kiểm, đô giám, hiệu là tướng quan, lĩnh binh mã, thụ chỉ huy. Thời kiến quốc, Tống bố trí binh lực "thủ nội hư ngoại", song sau những năm Hi Ninh (1068-1077) thì quân đồn trú tại thủ đô giảm thiểu[chú thích 3]。
Triều Tống thi hành chế độ mộ binh mang tính tự nguyện[tham 54], và trong năm có nạn thì chiêu mộ dân lưu tán, dân đói làm binh sĩ, như một loại quốc sách truyền thống, có tính chất phúc lợi xã hội, tạo tác dụng ổn định chính quyền[chú thích 4][chú thích 5] Quân đội triều Tống phân thành bốn quân chủng là cấm quân, sương quân, hương binh, phiên binh. Cấm quân là quân chính quy, cũng là chủ lực trong quân đội triều Tống. Sương quân là trấn binh các châu, do quan đứng đầu địa phương khống chế. Hương binh gồm các tráng đinh được các cơ quan chọn ra. Phiên binh là quân đội dân tộc phi Hán phòng thủ tại biên cảnh[tham 55].
Máy bắn đá vẽ trong "Vũ kinh tổng yếu".Bắc Tống từ thời trung kỳ về sau tiến hành chiến tranh với các quốc gia Liêu và Tây Hạ, khiến phí tổn quân sự gia tăng, đối với tướng soái thống binh hạn chế quá nhiều "quyền nhiệm nhẹ song pháp chế mật", tướng không được chuyên binh, bị kiềm chế hành động; chủ tướng không biết bộ tướng có tài hay không, còn các tướng lĩnh thì không biết mạnh yếu của tam quân, mỗi người không quản hạt lẫn nhau, tự khiêm nhường. Ngoài ra, kỷ luật quân đội bất minh khiến quân Tống thiếu huấn luyện nghiêm trọng, suốt ngày "du hí giữa phố chợ". Trương Diễn Bình nói rằng triều Tống đối đãi với võ thần thì hậu về lộc song bạc về lễ.[tham 56] Chủ lực trong quân đội Nam Tống là đại binh đồn trú và tam nha. Đại binh đồn trú có sức chiến đấu khá mạnh, phần nhiều thuộc bộ đội do tư nhân triệu mộ, như "Nhạc gia quân". Đương thời, năng lực khống chế quân đội của triều đình đã yếu đi, quyền hạn của Xu mật viện cũng dần giảm thiểu. Năm Thiệu Hưng thứ 11 (1141), binh quyền của các tướng lĩnh như Hàn Thế Trung, Nhạc Phi lần lượt bị tước giảm[tham 57]。
Quân đội nhà Tống chia ra 4 loại: Cấm quân, Sương quân, Hương binh và Phiên binh.
Triều đình còn sai các “giáo luyện sứ” xuống tổ chức việc huấn luyện ở các địa phương. Theo Văn Hiến Thông Khảo, Lộ Quảng Nam Đông và lộ Quảng Nam Tây, cứ 5 nam đinh chọn 1 làm lính, giao cho vũ khí, cho tập võ nghệ theo đơn vị huyện. Quảng Nam Đông tập được 14.000 binh, Quảng Nam Tây được 39.800 binh. Về sau, định thành lệ tập quân vào tháng 10-11 hàng năm.
Về kỵ binh, theo thống kê năm 979, nhà Tống có tất cả 170.000 con ngựa, chưa tính 42.000 con cướp được của nước Bắc Hán. Do 16 châu Yên Vân, vốn vùng thảo nguyên cung cấp ngựa, đã mất gần hết vào tay nước Liêu nên nhà Tống chuyển sang mua ngựa từ các nước Đại Lý, La Điện, Đặc Ma, Tạ Phiên, La Khổng, Đằng Phiên. Triều đình có “kỳ ký viện” chuyên phụ trách chọn giống ngựa tốt dùng làm ngựa chiến, giao cho các “mục trường” phụ trách chăn nuôi và huấn luyện.
Thời Tống, kỹ thuật quân sự rất tiến bộ. Từ triều nhà Đường về trước vẫn nằm trong thời đại binh khí lạnh (gươm giáo, cung tên), song từ triều Tống trở đi thì hỏa khí (vũ khí sử dụng thuốc súng) bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chiến tranh. Ngoài vũ khí truyền thống, quân Tống sử dụng thêm các vũ khí mới như "phích lịch pháo", "chấn thiêu lôi", "dẫn hỏa cẩu", "thiết hỏa pháo", "hỏa tiễn", "hỏa cầu", "hỏa thương", "hỏa pháo", từng bước tiến vào thời đại sử dụng cả lãnh binh khí và hỏa khí.
Về trang thiết bị thủy chiến, thủy quân vẫn phát triển tại khu vực Giang Hà, Tần Hải, thời Nam Tống còn có "xa thuyền". Ở trung ương có “tạo thuyền vụ” phụ trách đóng thuyền, ở địa phương, những nơi bến bãi thuyền, những điểm trung tâm giao dịch vùng duyên giang hoặc duyên hải, họ đều có các “tạo thuyền trường” phụ trách đóng và sửa chữa thuyền bè cho dân chúng và quan quân. Một số loại chiến thuyền thời Tống:
Về máy bắn đá thì có "xa hành pháo", "đơn sảo pháo", "toàn phong pháo"[tham 58]
Trong các đời vua, tại trung ương và địa phương thiết lập nhiều cơ cấu chế tạo và quản lý binh khí, khống chế nghiêm ngặt chế tạo và phân phát binh khí, còn quy định chế độ kiểm tra, duy tu và trao binh khí. Quân khí được chứa trong các kho quân khí gọi là “vũ khố”, do các viên “quân khí khố sứ” và “quân khí khố phó sứ” phụ trách bảo quản và phân phát cho binh sĩ. Nhà Tống chia vũ khí thành 2 loại: “trường trận” chỉ các loại vũ khí tấn công tầm xa; “đoản binh” chỉ các loại vũ khí cận chiến. Trong đó, các vũ khí “trường trận” được đầu tư khá chu đáo.
Trong việc bảo vệ thành trì, phát triển các cách thức xuất thành chế, nỗ đài, địch lâu. Trong đó, có danh tiếng nhất là thể chế phòng ngự sơn thành, tướng Dư Giới của Nam Tống tại Tứ Xuyên phòng ngự quân Mông Cổ, nhằm củng cố khu vực Xuyên Tây đã sử dụng phương châm "thủ điểm bất thủ tuyến, liên điểm nhi thành tuyến", xây đắp thành Điếu Ngư, Đại Hoạch, Thanh Cư, Vân Đính, Thần Tí, Thiên Sinh, tổng cộng hơn 10 thành, hình thành một mạng lưới phòng ngự, đề kháng thành công sự công kích của quân Mông Cổ[tham 59]
Tuy trang bị mạnh hơn các triều đại trước, nhưng quân đội nhà Tống bị đánh giá là yếu so với quân đội các triều đại lớn khác trong lịch sử Trung Quốc. Không chỉ thất bại trong chiến lược thu phục 16 châu Yên Vân, nhà Bắc Tống còn liên tục thất thế trong các cuộc chiến tranh với bên ngoài, phải dâng tiền cấp dưỡng cho Liêu, Hạ trong suốt một thời gian dài, về sau thì bị mất lãnh thổ phía Bắc và tay nhà Kim, cuối cùng thì mất nước vào tay Mông Cổ. Đó là bởi những nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan như:
Thực đơn
Nhà Tống Quân sựLiên quan
Nhà Nhà Tống Nhà Nguyễn Nhà Hán Nhà Minh Nhà Đường Nhà Thanh Nhà Trần Nhà Lý Nhà Tây SơnTài liệu tham khảo
WikiPedia: Nhà Tống http://www.confucianism.com.cn/html/wenxue/1348450... http://www.cenet.org.cn/cn/CEAC/2005in/jjs008.doc http://www.art-and-archaeology.com/timelines/china... http://books.google.com/books?id=BxH0PqdGTVUC&pg=R... http://www.lunwentianxia.com/product.free.4452120.... http://www.xabusiness.com/china-resources/song-lia... http://www.artsmia.org/art-of-asia/history/dynasty... http://www.bcps.org/offices/lis/models/chinahist/s... http://www.chinaheritagequarterly.org/features.php... //dx.doi.org/10.1163%2F156852001753731033